Thập Bát La Hán là đệ tử đắc đạo của Phật, là chính quả có tu hành cao nhất trong Phật giáo. Các vị đã tu đến cảnh giới La Hán tức là đã đoạn tận buồn phiền của tam giới, diệt trừ những điều đã thấy, vĩnh viễn giải thoát luân hồi. Về mặt ý nghĩa, La Hán có thể coi là Vô Cực Quả hoặc Giải Vô Học Quả, biểu thị đã đạt tới cực điểm, học hết mọi thứ, không có gì không thể học rồi.
Nét độc đáo của các mẫu tượng Thập Bát La Hán đẹp chính là ở các tư thế, hình dáng, nét mặt của các vị: vị ngồi, vị đứng, vị chau mày… thể hiện sự tôn nghiêm và cao quý. Mỗi người có một thế tu, chân tu để hóa thánh riêng.
Các mẫu tượng đá Thập Bát La Hán thường được đặt thờ chung cả 18 vị trong các chùa, ngoài ra có thể mỗi vị sẽ được thờ riêng tùy vào sở thích thẩm mỹ của mỗi người.
Ý Nghĩa Tượng Thập Bát La Hán
A la hán chỉ là phiên âm từ tiếng Phạn Arahat. Chữ Arahat hay A la hán có 3 nghĩa: Sát tặc, Vô sanh và Ứng cúng.
- Sát tặc: Là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm. Bọn giặc phiền não chúng nó hung tợn dữ dằn lắm. Những thứ phiền não gốc ngọn gì, các Ngài cũng đều giết sạch hết, nên gọi là sát tặc.
- Vô sanh: Đồng nghĩa với Niết bàn. Nghĩa là các Ngài đã đạt được một trạng thái tâm lý yên tịnh không còn sanh diệt nữa. Nói rõ, là các Ngài không còn sanh tử luân hồi.
- Ứng cúng: Là các Ngài thật xứng đáng cho trời người cúng dường.
Tượng Thập Bát La Hán Bao gồm:
1. Tân Đầu Lô Tôn Giả – Tọa Lộc La Hán
Tọa Lộc La Hán tên là Tân-đầu-lô-phả-đọa (Pindola Bharadvaja). Ngài xuất thân từ dòng Bà-la-môn, vốn là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên đã rời bỏ xa hoa gấm vóc nơi triều đình để vào rừng núi tu tập. Ngài đã đắc đạo thành chứng Thánh quả cưỡi hươu về triều để khuyến hóa vua. Hình tượng ngài ngồi trên lưng con Hươu thong dong, tự tại đã minh chứng cho những tháng ngày tu thành chính quả. Nhân đó, ngài đã được tặng danh hiệu La-Hán cưỡi Hươu, hay còn gọi là La Hán Tọa Lộc.
2. Già La Già Phạt Tha Tôn Giả – Khánh Hỷ La Hán
Khánh Hỷ La Hán tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Tượng của ngài được khắc họa với gương mặt tươi cười phúc hậu nhắc chúng ta cần khéo léo trong đối nhân xử thế, bỏ ác theo thiện. Muốn thu phục nhân tâm phải lấy chân thành đối đãi, muốn được người người ngưỡng trọng nghe theo thì quý vị cần phải nỗ lực tinh tấn tu tập, rèn luyện biện tài thuyết pháp thì mới mong có thể chiêu phục được người khác.
Kinh Phật nói rằng ngài là vị La Hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia ngài cũng đã là người luôn tuân thủ khuôn phép, ăn nói cẩn trọng, không để phát khởi bất kỳ ý nghĩ xấu xa nào. Hình ảnh này nói lên việc chúng ta cần phải giữ gìn lấy thân miệng ý để không chìm trong giận giữ, thù hận hay bất kỳ sự xấu xa nào khác.
3. Già Nặc Già Bạt Ly Noa Đóc Tôn Giả – Cử Bát La Hán
Cử Bát La Hán có tên là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanaka Bharadvaja). Hình tượng Cử Bát nghĩa là ngài luôn mang theo bên mình một cái bát sắt khi du hành khất thực. Khất thực là một việc không thể thiếu đối với các vị chân tu. Khất thực là cách để rèn luyện sự nhẫn nhục, kiên trì, từ bi. Cho nên, ý nghĩa của tượng ngài Cử Bát La Hán là muốn nói hết thảy chúng sanh hãy tin tưởng vào Phật Pháp và tu tập mới mong giải thoát khỏi vô minh phiền não.
4. Tô Tần Đà Tôn Giả – Thác Tháp La Hán
Thác Tháp La Hán có tên là Tô-tần-đà (Subinda). Ngài là người rất tinh nghiêm, nhiệt tình giúp đỡ người khác nhưng lại ít thích nói chuyện, giao tiếp không hay. Nhưng như Đức Phật đã nói việc này chẳng liên quan gì đến vấn đề giác ngộ.
Quả thật, Tô-tần-đà đã tu tập nghiêm chỉnh và chứng quả La Hán. Hình tượng Ngài được họa ra với bản tháp thu nhỏ trên tay và nâng lên ngang ngực. Tháp là nơi thờ xá lợi Phật, khi giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp. Cho nên, Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Ý nghĩa của hình tượng này là dù quý vị có là người như thế nào chăng nữa, trong tâm có Phật, biết tu tập tinh tấn tất sẽ tu thành chính quả, đạt được giải thoát.
5. Nặc Cự La Tôn Giả – Tĩnh Tọa La Hán
Tĩnh Tọa La Hán tên là Nặc-cù-la (Nakula). Hình tượng ngài được khắc họa đang ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết thì ngài thuộc thuộc giao cấp Sát-đế-lợi có sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Hình ảnh này muốn nói rằng bằng con đường tu tập chân chính, công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Những quý vị nào đã tu tập theo Phật Pháp, phải đảm đảm tuân theo những gì Phật dạy, có như thế mới là đạo Phật chân chính, mới có thể thoát khỏi vô minh phiền não.
6. Bạt Đà La Tôn Giải – Quá Giang La Hán
Quá Giang La Hán có tên gọi là Bạt-đà-la (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết ngài là người thích tắm rửa, một ngày có thể tắm cả chục lần. Lúc mọi người làm việc khác ngài lại tắm, lúc mọi người đi ngủ ngài cũng tắm, đêm tắm đến năm, sáu lần. Khi đức Phật biết đến điều này đã chỉ dạy cách tắm rửa cho Thế Tôn. Tắm – nghĩa là vừa tẩy rửa thân thể vừa tẩy rửa những ô uế trong tâm, gột sạch các tham sân si phiền não để tâm thanh tịnh. Từ đó, ngài làm theo và chứng được quả A-la-hán.
Chính vì thế, tượng ngài trong bộ tượng Thập Bát La Hán mang lại ý nghĩa phản tỉnh tư duy, chỉ ra việc tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực trong đạo Phật.
7. Già Lý Già Tôn Giả – Kỵ Tượng La Hán:
Kỵ Tượng La Hán có tên là Ca-lý-ca (Kalica), trước khi xuất gia tu tập Ngài làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài ở lại quê hương để ủng hộ Phật Pháp. Từ đó cái tên Kỵ Tượng La Hán đã gắn liền với ngài.
8. Đốc La Phật Đa La Tôn Giả – Tiếu Sư La Hán
Ngài có tên là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Hình tượng Ngài được khắc họa khá mạnh mẽ và trông dữ tợn như chính những gì ngài đã làm trước khi xuất gia. Trước khi xuất gia, ngài làm nghề thợ săn. Với thể lực tráng kiện, ngài có thể một tay nâng voi, nắm sư tử ném xa 10 mét. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, bên cạnh luôn có một con sư tử quấn quýt, cho nên mới có biệt hiệu là La Hán Đùa Sư Tử hay còn gọi là Tiếu Sư La Hán.
9. Tuất Bác Già Tôn Giả – Khai Tâm La Hán
Ngài tên thật là Thú-bác-ca (Jivaka). Ngài vốn là một Bà-la-môn nổi danh, đã từng chứng kiến sự nhiệm màu của Phật thông qua việc chặt cây trúc dài đo thân Phật, nhưng đo cách gì thân Phật vẫn cao hơn một chút. Dù đổi thang dài hơn bao nhiêu, đo đến mười mấy lần, thân Phật vẫn cao hơn. Kể từ đó ngài khâm phục và xin quy y làm đệ tử. Sau 7 năm khổ hạnh, ngài được chứng quả A-la-hán và có tên là Khai Tâm La Hán.
Trong bộ tượng Thập Bát La Hán, hình tượng của ngài được khắc họa là vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Điều này muốn nói đến đức tin bất diệt không gì có thể thay đổi, xem Phật Pháp nhiệm màu là chân lý ngàn đời của Ngài.
10. Bán Thác Già Tôn Giả – Thám Thủ La Hán
Ngài tên là Bán-thác-ca (Panthaka), theo dịch thuật của Trung Hoa có nghĩa là Đại lộ biên sanh, hay còn gọi là sanh ở bên đường. Trong bộ tượng Thập Bát La Hán, hình tượng của ngài được khắc họa đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Điều này mang lại ý nghĩa rằng ngài đã giác ngộ, tinh tấn dõng mãnh khi tu tập theo Phật Pháp.
11. Hầu La Tôn Giả – Trầm Tư La Hán:
Ngài có tên là La-hầu-la (Rahula). Trước khi xuất gia, ngài có tánh vương giả, hay trêu ghẹo người. Nhưng sau khi giác ngộ tu Phật, ngài liền biến thành vị Tỳ Kheo khiêm cung nhẫn nhục, không tranh hơn thua, Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả.
Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua. Ai phỉ nhổ ai đối xử ác độc đều mặc kệ, ngài bình thản đón nhận lặng lẽ tu tập. Chính nhờ vậy, ngài được Đức phật khen tặng là Mật hạnh đệ nhất. Với đức tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Chiếu vào cuộc đời của Ngài, chúng ta có thể học hỏi để tu tập. Để tu đắc đạo, nhất định phải nhẫn nhục, như chính ngài, đức La Hán Trầm Tư.
12. Na Già Tê Na Tôn Giả – Khoái Nhĩ La Hán:
Khoái Nhĩ La Hán tên là Na-già-tê-na (Nagasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nagasena lược dịch theo tiếng phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh thiên nhiên.
Ngài chuyên tu về nhĩ căn, tượng của ngài được mô tả là vị La Hán đang ngoáy tai. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, vô cùng lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo. Cho nên, ngài mới được Phật tặng biệt hiệu là Khoái Nhĩ La Hán.
Hay nói một cách dễ hiểu hơn, con người thường có một cái miệng để nói nhưng đến hai cái tai để nghe, hãy học cách lắng nghe. Đó được xem là biện pháp tu tập giúp chúng ta ngày càng thông suốt hơn. Trong bộ tượng Thập Bát La Hán, ý nghĩa của tượng ngài là như vậy.
13. Yết Đà Tôn Giả – Bố Đại La Hán:
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà – Nhân-kiệt-đà (Angada). Truyền thuyết kể rằng Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ. Hành động bắt rắn này là để giúp đời giúp người vì xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng và bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi.
Trong bộ tượng Thập Bát La Hán, hình tượng của ngài được khắc họa mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ Tát Di Lặc. Hình tượng này mang lại ý nghĩa sâu sắc về lòng từ đức cao độ của Ngài, giúp đời giúp người. Mà trong đạo Phật, từ bi là cốt lõi của mọi hạnh nguyện.
14. Phạt Na Bà Tư Tôn Giả – Ba Tiêu La Hán
Ba Tiêu La Hán có tên là Phạt-na-bà-tư (Vanavàsin). Ngài được khắc họa với chân dung đang tọa thiền trên phiến đá lớn. Theo truyền thuyết ngài khi xuất gia thường thích tu tập trong núi rừng, đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La Hán Ba Tiêu.
15. A Thị Đa Tôn Giả – Trường Mi La Hán
Ngài có tên là A-thị-đa (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Truyền thuyết kể rằng lúc ngài vừa sinh ra đã có lông mày dài rủ xuống, đây là điềm báo kiếp trước ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
Ngài là vị La Hán sau khi chứng quả vẫn thường du hóa trong dân gian. Nhờ vào sự hoằng dương này của Ngài đã giúp Đạo Phật trở nên hưng thịnh tại Ấn Độ. Cho nên, tượng của Ngài gắn liền với từ bi, đức hạnh, một lòng tín Phật, là nhân chứng sống để quý vị Phật Tử noi theo.
16.Chú Đồ Thác Già Tôn Giả – Kháng Môn La Hán
Ngài có tên là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc (Culla Patka). Truyền thuyết kể rằng Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Ngài được Phật tặng danh hiệu Kháng Môn La Hán nhờ vào thái độ tu tập, thực hành nhẫn nại của Ngài, mặc dù Ngài vốn là người làm gì cũng sai sót, không thông minh, hậu đậu.
Trong bộ tượng Thập Bát La Hán, hình tượng của ngài được khắc họa đang cầm một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ. Đây là vật mà Phật đã trao tặng cho ngài nhằm giúp Ngài khất thực mà không cần gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung lên. Cây gậy nhỏ này đã trở thành biểu tượng của của Tôn giả và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật Giáo.
17. Già Diệp Tôn Giả – Hàng Long La Hán
Tên của ngài là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra). Hình tượng của ngài được khắc họa trong dáng vẻ rất mạnh mẽ, đang đấu nhau với một con rồng. Truyền thuyết kể rằng có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhấn chìm, Tôn Giả đã ra tay hàng phục một con rồng lớn và được tặng danh hiệu Hàng Long La Hán. Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm.
18. Di Lặc Tôn Giả – Phục Hổ La Hán
Ngài có tên là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrata). Thuở nhỏ, người đã có căn duyên tu tập, thường chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La Hán thờ trong điện. Với lòng thành tín đạo, ngài đã được các vị La Hán chỉ dạy tu tập. Từ đó ngài siêng năng tọa thiền, xem kinh và làm việc thiện, chẳng bao lâu chứng quả thành Phục Hổ La Hán.
Việc thỉnh, mua tượng Thập Bát La Hán không phải là việc ngẫu hứng thích, mà thể hiện ý chí hướng đến giá trị tâm linh. Tượng Thập Bát La Hán kém chất lượng sẽ có các chi tiết chạm trổ bị thiếu sự tinh tế. Thậm chí còn không thể hiện được thần sắc của Ngài Thập Bát La Hán.Tại VĨ LOAN, chúng tôi có xưởng sản xuất uy tín, chuyên nghiệp, các sản phẩm được thực hiện bởi các nghệ nhân lâu năm, có tay nghề cao. Vậy nên tượng Thập Bát La Hán sẽ đảm bảo chất lượng đẹp, cân đối nhất. Đồng thời chất lượng đá được sử dụng là các loại đá cẩm thạch nguyên khối chất lượng, đã qua quá trình xử lý cẩn thận.
Không chỉ đảm bảo yếu tố chất lượng, tượng Thập Bát La Hán tại Vĩ Loan còn đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cao. Mọi đường nét đều được các nghệ nhân chăm chút tỉ mỉ nhất có thể. Từ đó đem lại sản phẩm chân thực, sắc nét nhất.
Review Tượng Thập Bát La Hán
Chưa có đánh giá nào.